Major Lê Minh MACV-SOG CCC Loi Ho Chiến Đoàn 2 Xung Kích
Sunday, November 29, 2009
Đoàn Khánh Hòa 13
Toán OHIO FOB2 KONTUM 1966-1967
Hàng đứng (từ trái sang phài)
Văn Minh Huy, Wong A Cầu, MSG Richard J. "Dick" Meadows, 1st Lt. Lê Minh, SFC James A Simpsons, SFC N. "Chuck" Kerns, Trần Can và Trương Dậu
Hàng quỳ (từ trái sang phài)
Liêu A Sáng, Nguyễn Kim Trạch, Trương A Nhục và Lý A Dưỡng
Để tưởng nhớ đến:
• Trung Úy Phan Nhựt Văn (Sở Liên Lạc)
• Đại Úy Dick Meadows (MACVSOG)
• Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (Phi Đoàn 219 KingBee)
• cùng các Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật đã phục vụ và hy sinh trong cuộc chiến tại Việt Nam.
Lê Minh
Đối với người Âu Châu, con số 13 là số xui xẻo, con số tối kỵ. Nếu con số này lại rơi vào ngày thứ Sáu thì càng tối kỵ hơn nữa. Riêng về phần tôi, dạo còn đi học hay thời gian trong quân ngũ, tôi cũng chẳng kiêng cữ gì với số 13 này cả… Thứ Sáu ngày 13 nếu là ngày không tốt, nếu là ngày xui thì chỉ dành riêng cho người Âu Châu mà thôi… Nhưng đối với Đoàn Khánh Hòa 13 này, con số 13 là con số mạt rệp, con số xui xẻo tận mạng, con số đau thương tang tóc.
Tháng 6 năm 1966, buổi sáng thời tiết ở Kontum thật là mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thăm thẳm. Tôi có thói quen ngày nào cũng phải nhìn trời để rồi liên tưởng đến thời tiết mỗi ngày. Buổi sáng trời trong xanh, trần mây cao như thế này thật là lý tưởng cho những chuyến hành quân xâm nhập hay triệt xuất. Thật ra các chuyến công tác xâm nhập thường vào buổi chiều, mà buổi chiều ở vùng Tam Biên thay đổi thất thường. Trời đang cao thăm thẳm không một tàn mây, rồi mây đen ở đâu bỗng ùn ùn kéo tới thật thấp, tưởng chừng như là đà ngọn cây. Tầm nhìn cao và xa không qúa 100 thước, do đó thường gây trở ngại cho các chuyến hành quân nhưng lại là yếu tố thuận lợi cho các đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt trên hành lang Trường Sơn vùng 3 biên giới.
Tôi vừa nhận được lệnh hành quân chiều hôm qua. Sáng nay khoảng 10 giờ thì bay không thám. Bây giờ mới 7 giờ rưỡi sáng, còn sớm qúa! Tôi muốn trở vào giường nằm nán thêm ít phút để suy nghĩ về những ngày phép sắp tới, khi chuyến hành quân này chấm dứt. Niềm vui của những ngày về phép Sàigòn, những ngày được sống cạnh Liên khiến tôi bỏ ý nghĩ vào giường nằm lại. Tôi quay về phòng lấy gói thuốc lá và bước qua Câu Lạc Bộ uống cà phê. Đang ngắm những giọt cà phê từ từ rơi xuống đáy cốc và nghĩ đến bức thư của Liên vừa nhận được hôm qua, cho biết là đã mang thai được 2 tháng và hỏi tôi muốn đặt tên con là gì? Tôi thì thích con trai, Liên thì muốn con đầu lòng là con gái… Đang mải suy tư bỗng giật mình vì tiếng của Trung Sĩ Phát HSQ Ban 3:
-o- Trung Úy, 10 giờ sáng nay Trung Úy bay không thám. Xe Jeep Ban 3 đã chuẩn bị sẵn sàng chở Trung Úy ra phi trường đang đậu ở TOC. Trung Tá nhắc Trung Úy ra phi trường đúng giờ, đừng để tụi Mỹ nó chờ!
-o- ”Con c…” – Tôi muốn chửi thề tiếp theo nhưng vội tốp lại. Tại sao ông xếp nào cũng có tính lo xa? Các ông ấy đâu có biết những điều thiếu tế nhị đó thường làm bọn Sĩ Quan trẻ chúng tôi tổn thương tự ái. Rồi tôi tự nhủ ”Quân Đội là vậy đó. Buổi sáng trời đẹp như thế này xì nẹt làm gì?”. Nghĩ thế tôi bèn cười và nói với Trung Sĩ Phát:
-o- Ngồi xuống đây, còn sớm mà… Cà phê sữa nhé?
Qua phút ngượng vì tôi xì nẹt bất tử, Trung Sĩ Phát ngồi xuống nói:
-o- Bản đồ đã làm xong. Em đã khoanh tọa độ các bãi đáp theo như không ảnh dự trù. Có điều các bãi đáp đều qúa xa mục tiêu!
-o- Tao biết… Ban 2 và Ban 3 đã thuyết trình hôm qua rồi. Mày sợ ở vùng mục tiêu không có bãi đáp triệt xuất phải không?
Vì bảo mật, các mục tiêu hành quân chỉ giới hạn cho một số người biết. Hạ Sĩ Quan Ban 3 như Trung Sĩ Phát thì chỉ biết làm bản đồ hành quân, còn nhiệm vụ hành quân và tin tức tình báo thì biết một cách hạn chế. Nhưng vì phục vụ ở Ban 3 Chiến Đoàn từ lâu, phụ trách đánh máy giải trình các cuộc hành quân, do đó Phát cũng đoán được tính chất của mục tiêu và nhiệm vụ cuộc hành quân này. Thật ra nhiệm vụ chính của cuộc hành quân này vẫn là thám sát, báo cáo và hướng dẫn phi cơ oanh kích. Nhiệm vụ phụ là ”bắt tù binh”. Có điều tôi thấy hơi khác lạ là trước nay thường có lệnh chuẩn bị hành quân từ trước. Sau đó, toán được đưa vào Khu Cấm, nội bất xuất – ngoại bất nhập. Xong đâu đó, Toán Trưởng mới nhận được lệnh hành quân; tham dự thuyết trình với các Sĩ Quan Ban 2 và Ban 3 với các không ảnh mới nhất; sau đó đi bay không thám để chọn bãi đáp. Ở nhà Toán Phó tùy theo tính chất mục tiêu và nhiệm vụ hành quân, liên lạc với Ban 4 để trang bị đầy đủ theo nhu cầu.
Toán ở trong Khu Cấm thường thì 2 hay 3 ngày. Trong thời gian này, chỉ có Toán Phó và Toán Trưởng bận rộn thôi. Toán viên chỉ lo lau chùi vũ khí, chuẩn bị các quân dụng cần thiết mang theo cho phù hợp với nhiệm vụ chuyến công tác. Trước khi đi hành quân, cả toán được xe chở ra sân bắn để thử súng. Ngoài ra, cả ngày toán chỉ ở trong Khu Cấm, nằm nghe nhạc, thục bi-da và xem báo PlayBoy. Báo PlayBoy thì các HSQ cố vấn toán cung cấp không thiếu.
Lần hành quân này, nếu hôm nay tôi bay không thám, chọn được bãi đáp rồi thì chiều nay là ”go” ngay. Mấy thằng em tôi trưa nay mới phải vào Khu Cấm, trang bị và thử súng cũng nội trong buổi chiều. Gấp qúa nhưng tụi nhỏ nó khoái. Làm sớm nghỉ sớm! Tôi lại nghĩ đến buổi thuyết trình chiều qua. Nhìn vẻ mặt thật quan trọng của Trung Tá Cold Cố Vấn Trưởng và Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng sau khi được SQ Ban 2 và Ban 3 cho biết là mức độ xâm nhập của địch vào vùng Benhet rất cao. Hình ảnh do vệ tinh chụp được cho thấyxe vận tải và bộ binh của địch di chuyển rất rõ. Tin tức tình báo như thế này thì xếp vào loại A rồi! Nhiệm vụ chuyến hành quân này là: quan sát, chỉ điểm cho khu trục oanh kích các đoàn quân xa và các đơn vị địch. Ngoài ra còn tìm các kho tiếp liệu quanh vùng này.
Tin tình báo cho biết địch sẽ chuẩn bị tấn công vào quận Tân Cảnh hoặc thị trấn Dakto. Tôi cũng khoái nhiệm vụ của cuộc hành quân này, vì không phải trang bị nặng cho các mục tiêu cần chất nổ hay mìn đặt trên đường. Có điều làm gấp như thế này sợ mấy thằng em của tôi thiếu chuẩn bị. Tôi quay qua Tr/Sĩ Phát:
-o- Anh chạy xuống toán gọi Thương Sĩ Sơn giùm tôi. Tôi chờ anh về uống cà phê và ăn sáng luôn. Phải dặn Th/Sĩ Sơn vài điều mới được…
Tôi đi bay sớm nhất cũng 1-2 giờ trưa mới về. Buổi chiều còn biết bao nhiêu việc phải làm và tôi lại nghĩ đến Thượng Sĩ Cố Vấn toán mới vừa đổi về hơn 3 tuần. Chúng tôi đã đi hành quân 5 ngày thực tập tuần trước. Tên này rất có kinh nghiệm trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt. Nghe nói hắn là HSQ xuất sắc nhất của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ. Toán tôi có 3 tên Mỹ, tên nào cũng có từ 10 đến 15 năm kinh nghiệm trong LLĐB. Cố Vấn Trưởng Thượng Sĩ Richard J. Dick Meadows. Hai Trung Sĩ kia là James A. Simpson và Trung Sĩ Charles N. Chuck Kerns. Hai Trung Sĩ này, một người là chuyên viên mìn bẫy và phá hoại, còn người kia là chuyên viên truyền tin kiêm cứu thương. Các Cố Vấn đối với toán rất thân mật, vui vẻ và cởi mở. Không biết đây là tiêu lệnh trên chỉ thị, hay là vì vào sanh ra tử chung với chúng tôi nên họ sống rất hòa mình với anh em toán.
Thượng Sĩ Sơn bước vào Câu Lạc Bộ cùng lúc với mấy Sĩ Quan trực thăng H-34. Tôi đẩy ghế và vẫy tay gọi họ lại ngồi chung, cùng lúc Trung Úy Huệ hỏi:
-o- Ê Minh Đen, cà phê sớm qúa vậy? Mày chuẩn bị hành quân phải không?
Tôi không trả lời vội, gọi mấy cô Câu Lạc Bộ xếp thêm ghế cho họ ngồi vây chung quanh bàn tròn rồi trả lời:
-o- Ừ có lẽ chiều nay, nếu thời tiết tốt.
Tôi quay qua Trung Úy Nghĩa, Trưởng Biệt Đội:
-o- Tụi mày xắp đổi Crew chưa? Sau lần hành quân này tao đi phép về Sàigòn, tụi mình rủ thằng Tuấn-con đi chơi.
Các Sĩ Quan trực thăng trong Phi Đoàn Long Mã 219 này nhìn vào chẳng giống các Sĩ Quan Không Quân khác một chút nào cả. Mặc đồ Biệt Kích, đồ Beo! Súng Colt 9 ly đeo xệ xệ, chẳng có lon lá gì cả. Nếu trong tay không cầm nón bay thì chẳng ai biết đây là những Sĩ Quan Không Quân hào hoa phong nhã. Nếu các binh chủng có sự đoàn kết sống chết với nhau thì phải kể đến các Phi Hành Đoàn này với các đơn vị hành quân của chúng tôi, như câu châm ngôn truyền tụng: ”Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Trong các chuyến hành quân ”Ra Đi Không Hẹn Ngày Về” của các toán Lôi Hổ, qua chiến công của các toán Biệt Kích mang về, một phần lớn cũng nhờ vào những phi vụ cảm tử của các phi công trẻ này. Với những nick-name mà các toán thường nhắc nhở như: Hùng Râu Kẽm, Nghĩa Lùn, Hiếu Chết, An Cào-Cào, v.v… Bất chấp hỏa lực phòng không của địch, bất chấp các toán Biệt Kích đang bị địch truy kích và sắp sửa bị tiêu diệt, những chàng trai này vẫn liều mạng đáp xuống.
Không những các toán Lôi Hổ coi các phi hành đoàn này như anh em, mà các phi công Hoa Kỳ yểm trợ hành quân chung cũng phải giở nón cúi đầu trước các phi vụ ”uống thuốc liều” của các chàng trai trẻ này. Chúng tôi thường nói đùa: Họ là những chàng trai hành quân mang dép… Lạnh cẳng, cần mang giầy, mang vớ thì đi chỗ khác chơi! Do đó, tuổi thọ của những chàng trai này thường ”gẫy cánh” ở luới tuổi dưới 30! Hôm nay, không có toán nào trong vùng hành quân nên bọn họ còn nhởn nhơ ở đây. Mỗi ngày, nếu có toán hành quân trong vùng thì 6 giờ sáng phải bay lên căn cứ yểm trợ Dakto ứng chiến rồi.
Tôi dặn Thượng Sĩ Sơn vài điều cần thiết rồi quay sang hỏi tiếp Nghĩa:
-o- Hôm nay mày được bao nhiêu ”chỉ” rồi? Tao nghĩ vài bữa nữa tụi mày đếm chỉ lia lịa đó.
Nếu người ngoài nghe câu này chắc chẳng hiểu gì cả. Không biết danh từ này do ai đặt ra, đến nỗi các bà lái phi công ở nhà cũng biết và xài danh từ này! Vì đảm trách các cuộc hành quân mà phi vụ nào cũng rất hiểm nghèo, do đó các Phi Đoàn H-34 và các Phi Đoàn O2 to BTL/KQ biệt phái sang, mỗi lần bay vượt biên giới đều được thưởng 3000 đồng. Số tiền này so với thời giá thì cũng khá lớn. Tuy nhiên, rất xứng đáng với nhiệm vụ nguy hiểm mà họ phải đảm trách.
-o- Nghĩa cười: ”Nướng hết rồi”.
Tên này coi chậm chạp và ít nói như con gái, nhưng bay bổng, mạt chược và binh xập xám thì một cây! Tôi xem đồng hồ và đứng lên nói: ”Thôi, tao đi trước!”, rồi quay sang bà Chủ Câu Lạc Bộ hô: ”Ghi sổ hết cho tôi”.
Sau hơn 2 giờ bay không thám trở về, vừa xuống xe đã thấy Thượng Sĩ Sơn đứng chờ sẵn. Tôi đưa ngón cái lên, ngầm cho Sơn biết là việc lựa chọn bãi đáp đã OK. Cầm lon Coke lạnh Thượng Sĩ Sơn đưa tới, tôi vừa đi vừa uống rảo bước xuống TOC. Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Cố Vấn Trưởng, các Sĩ Quan Ban 2, Ban 3, các phi công O2, trực thăng võ trang, các trưởng phi cơ Việt, Mỹ đã có mặt ở dưới này rồi. Teo nheo mắt và bắt tay Thượng Sĩ Meadows. Cả hai cùng nói: ”Good afternoon!”.
Buổi thuyết trình này chỉ chú trọng về phần yểm trợ của Không Quân. Ý niệm hành quân cũng như lộ trình di chuyển của toán do Toán Trưởng dự trù. Thường thì Sĩ Quan Không Trợ Mỹ cho biết các lực lượng Không Quân yểm trợ cuộc hành quân cũng như các quy định thường lệ. Sĩ Quan FAC thuyết trình, chỉ định điểm hẹn 1, cho biết tần số liên lạc với khu trục A1-E đang trong vùng ở địa điểm 2. Lần này, toán chúng tôi hành quân đủ cấp số 12 người. Do đó, xâm nhập phải cần tới 2 trực thăng.
Vào tới địa điểm 1 – Biệt Đội 6. Chiếc trực thăng H-34 chỉ có Lead 1 và 2 theo hướng dẫn của FAC vào mục tiêu. Số 4 chiếc còn lại chờ ở điểm hẹn 1. Trường hợp gặp hỏa lực phi cơ bị rớt thì thứ tự các Rescue 1 rồi 2 vào tiếp cứu. Sau đó, trực thăng võ trang sẽ bắn rocket chung quanh bãi để H-34 xuống tiếp cứu. Trong trường hợp tình hình qúa nặng thì FAC sẽ điều động phi cơ khu trục A1-E ở điểm hẹn 2 vào tiếp. Nếu toán xâm nhập an toàn thì biệt đội trực thăng H-34 bay về Dakto ứng chiến. Trực thăng võ trang sẽ ở lại điểm hẹn 1 thêm 45 phút nữa. Sau đó, nếu mọi việc an toàn thì cũng bay về Dakto ứng chiến. Cuối cùng, khu trục A1-E sẽ giải tỏa bom đạn ở target G.
FAC luôn luôn có mặt trên vùng khoảng 30 dậm cách mục tiêu. Ngoài trường hợp khẩn cấp, toán sẽ báo cáo với FAC vào mỗi đầu giờ. 4 giờ 30 chiều thì báo cáo công điện trong ngày và vị trí dự trù đóng quân đêm. Thường thì công tác tuần tự như thế. Nhưng vì buổi sáng nay khi bay không thám, nhìn thấy bên dưới đường mòn chi chít như màng nhện. Hình ảnh không thám chụp từ mấy ngày trước bây giờ thấy xuất hiện thêm rất nhiều con đường mới. Nơi có ghi những con suối, bọn Công Binh của địch đã đổ đá và kè cây liền nhau cho xe vượt qua, dấu vết rất mới mẻ. Viên phi công FAC, người đã bay rất quen thuộc với vùng này cũng xác nhận các đường mòn này chỉ mới xuất hiện nội trong 1-2 ngày nay thôi. Ngoài ra khi bay không thám, tôi thấy các ngọn núi cao trong vùng đều có đặt tổ báo động. Tôi nghe súng trường ba tiếng một vang từ chỏm núi này sang chỏm núi khác.
Để có yếu tố bất ngờ, tôi đề nghị: ”Từ điểm hẹn 1, FAC hướng dẫn 2 trực thăng chở toán xâm nhập bay thật thấp, vào tới mục tiêu thì đáp luôn.”. Thiếu Tá Hoa Kỳ bay FAC nhìn các Sĩ Quan H-34 như hỏi ý kiến rồi ông nói: ”Từ điểm hẹn 1 vào mục tiêu khá xa, tôi đề nghị khi đi được khoảng 2/3 đường thì trực thăng mới bắt đầu hạ thấp cao độ. Như vậy cũng đủ yếu tố bất ngờ rồi. Vì bãi đáp khá lớn nên khi tôi lắc cánh ra dấu hiệu Bingo-Bingo-Bingo thì trực thăng 1 đáp xuống; khi chiếc này bốc lên thì trực thăng 2 đáp xuống.”. Đề nghị này rất khó cho phi hành đoàn vì FAC bay thật cao, hướng dẫn cho trực thăng lúc này đang bay rất thấp nên có thể sẽ không thấy được bãi đáp. FAC hướng dẫn Lead 1: Hướng 12 giờ 1000 thước, 800 thước, 600 thước, 400, 200, 100… Sau đó, FAC từ trên cao chúi xuống lắc cánh và gọi ám hiệu của máy bay ”Bingo-Bingo-Bingo”. Khi FAC lấy cao độ bay lên cũng là lúc Lead 1 đáp xuống. Khi Lead 1 bốc lên thì Lead 2 cũng vừa bay tới và đáp xuống luôn.
Như đã nói ở trên, trường hợp này bãi đáp phải lớn. Nếu bãi đáp nhỏ thì Lead 2 phải bay vòng lại để đáp cho đúng chiều, và nếu như vậy thì sẽ không còn yếu tố bí mật nữa. Nếu trong vùng bãi đáp không có các tổ báo động của địch thì chúng tôi giữ yếu tố bí mật được khoảng 80-90% rồi.
Sau đó, tôi lên bục thuyết trình, cho biết ý định hành quân của tôi mà tôi đã có ý niệm từ lúc ngồi trên chiếc O2 trên đường bay không thám về. Tốc độ di chuyển mỗi ngày, dự trù các điểm đóng quân đêm từ ngày N đến ngày N+4 trên đoạn đường từ bãi đáp đến mục tiêu. Ngày N+5 sẽ thám sát các tọa độ tại mục tiêu mà không ảnh đã cung cấp. Dự trù sẽ triệt xuất ngày N+6. Bãi đáp triệt xuất được dự trù ở tọa độ 200(th) hướng Đông-Nam, điểm đóng quân ngày N+4. Trường hợp chạm địch hoặc phải triệt xuất khẩn cấp thì bãi đáp sẽ tùy theo địa thế. Dấu hiệu cho phi cơ nhận toán là pano mầu cam trên chỏm nón. Dấu hiệu an toàn là pano mầu đỏ hình chữ T, mũi quay về hướng Bắc. Khói vàng là bãi đáp an toàn. Tôi hỏi: ”Ai có ý kiến gì nữa không?”. Tất cả đều chúc toán ”good luck”.
Bốn chiếc trực thăng võ trang vừa bay vượt qua dẫy núi hướng Tây-Bắc Dakto. Trực thăng chở toán 6 chiếc cũng bay theo. Trước đó vài phút, 4 chiếc khu trục A1-E bay đảo một vòng quanh bãi đáp trực thăng như ngầm cho biết ”Chúng tôi đã sẵn sàng chờ các bạn”, xong cũng bay khuất vào những mỏm núi cao hướng Tây-Bắc. Thời tiết chiều nay thật lý tưởng. Mặt trời đã gần sụp xuống ở chân trời nhưng hướng Tây trời vẫn còn sáng. Dự trù trực thăng bay khoảng 40 đến 45 phút, như vậy chúng tôi sẽ đến bãi đáp khoảng gần 6 giờ chiều. Xâm nhập mục tiêu trong thời gian này, xuống đất chúng tôi chỉ cần di chuyển khỏi bãi đáp chừng 300 đến 400 thước là có thể đóng quân. Địch dù đoán được có Biệt Kích xâm nhập nhưng tối rồi cũng khó mà theo dấu của chúng tôi.
Ngồi bên cửa trực thăng bỏ chân ra ngoài, tôi ngắm nhìn những cánh rừng cây cao xanh ngút ngàn điểm đầy những hố đỏ thẫm, dấu vết của những trân mưa bom B-52. Phi cơ tôi chở 6 người, gồm 2 tiền sát viên, tôi, Thượng Sĩ Meadows, 1 toán viên y tá và Trung Sĩ Charles mang máy truyền tin. Trực thăng thứ hai chở Toán Phó, Trung Sĩ James, 2 nhân viên phá hoại và 2 hậu vệ. Trời mới đó mà xụp tối rất nhanh. Gió tạt vào người tôi mát lạnh đến tê da. Trực thăng đến điểm hẹn 1, đảo vòng lấy hướng về bãi đáp và bay với cao độ thấp dần rồi giữ cao độ là đà trên ngọn cây cho đến bãi đáp. Cả đám xuống bãi đáp an toàn. Trời cũng vừa tối hẳn. Sau khi làm thủ lệnh kiểm soát tất cả đã an toàn, tiền sát viên bắt đầu di chuyển theo hướng đã định.
Đêm đó, chúng tôi đóng quân an toàn cách bãi đáp khoảng 500 thước. Tất cả toán chúng tôi tìm một địa thế cao, có cây không qúa to rồi đứng thành vòng tròn, mỗi người cách nhau một cánh tay dang ngang, đầu quay vào trong, xong đâu đó quay 180 độ ngược ra ngoài. Chúng tôi đóng quân quay thành hình tròn. Mỗi khi có báo động, chúng tôi đã có đội hình phòng thủ 360 độ. Ba-lô kê đầu, lưng lót poncho, dây đạn chỉ cởi khoen nhưng không tháo khỏi lưng, nằm ngủ súng luôn để trên bụng. Những ngày hành quân chúng tôi đều ngủ như thế.
Thay phiên nhau mỗi người gác một giờ. Đôi khi cảnh giác, chúng tôi cũng chăng giây báo động; một loại giây rất nhỏ bằng bao thuốc lá, vận hành bằng pin. Ban đêm chăng giây này cách mặt đất khoảng 3-4 tấc. Giây đứt, micro sẽ kêu lên, to nhỏ tùy theo volume đã được điều chỉnh từ trước. Tối ngủ, một người chỉ cần móc cái khoen của hộp báo động vào quai vai áo. Hệ thống báo động này rất nhạy, tuy nhiên cũng gây phiền phức không ít khi thú rừng đi vướng, hoặc cây khô ban đêm rơi xuống làm đứt giây.
Tôi tuyệt đối không bao giờ cho căng võng hoặc che lều. Trời có mưa thì trùm poncho chịu trận suốt đêm! Che lều đêm sương xuống lều sẽ phản chiếu ánh sáng, ở xa trông rất rõ. Ngủ võng đêm lúc trở mình sẽ khua động cành cây. Tôi cảnh giác cao như thế nên sau 2 năm hành quân, toán tôi chỉ bị theo dõi mấy lần nhưng chưa lần nào bị địch tấn công lúc đóng quân đêm cả. Địch thường theo dõi lúc toán mới xuống bãi đáp hoặc trong khi di chuyển, chờ lúc toán đóng quân là tấn công ngay. Buổi tối, chúng tôi không được phi cơ yểm trợ nên địch sẽ được lợi thế hơn. Nhiều toán đã bị đi đứt trong khi đóng quân đêm vì đồ đạc cởi bỏ lung tung, gây ồn ào hoặc hút thuốc lá, hay dùng C4 nấu cà phê.
Chúng tôi thường có câu: ”Đường mòn là mồ chôn Biệt Kích”. Hành quân cứ theo đường mòn mà đi hoài thì trước sau gì cũng lảnh thẹo. Hành quân mà hút thuốc lá là vô tình để cho địch theo dõi. Hút thuốc trong rừng ban ngày thôi, khói thuốc cũng bay từ 15 – 20 thước. Thuốc lá thơm thì mùi sẽ còn dễ nhận ra hơn nữa. Cả toán anh nào cũng là dân ghiền thuốc nên tôi cũng du-di, nhưng mỗi lần hút chỉ được hút phân nửa điếu đã được cắt đôi. Trong khi hút thuốc phải che điếu thuốc bằng nón vải. Nhả khói ra là lấy nón quạt khói tan ngay. Chỉ được hút 3 lần trong một ngày, mỗi lần hít vài hơi cho đỡ ghiền. Hút xong xé tan phần còn lại, bốc một nắm đất trộn đều xơ thuốc lại rồi rải xuống đất.
Không được hút thuốc có đầu lọc vì đầu lọc khó xé nhỏ, dễ để lại dấu vết. Tôi ở nhà hút mỗi ngày cũng gần một gói nhưng đi hành quân thì tôi nhịn. Chỉ tội nghiệp Trung Sĩ Charles, suốt cuộc hành quân miệng không ngớt nhai thuốc lá. Tôi cũng thuộc loại các Toán Trưởng chịu chơi, thường che chở và bật đèn xanh cho tụi nhỏ muốn làm gì thì làm, nhưng đi hành quân thì tuyệt đối phải giữ đúng tiêu lệnh chung. Tôi biết tụi nhỏ cũng than lắm, nhưng chịu khó vài ngày mà được trở về an toàn bộ không sướng hơn sao?
Ngày N+1
Phi cơ lên vùng rất sớm. Chúng tôi báo cáo trong đêm vô sự và bắt đầu di chuyển theo lộ trình. Đường đi rất khó vì B-52 oanh tạc, cây cối đổ ngổn ngang cùng hướng tiến của chúng tôi. Vì phải đi qua các hố bom đường kính trên 15-20 thước nên di chuyển rất chậm vì phải định hướng lại hoài. Buổi trưa trên con đường mòn nhỏ, trên đỉnh của một ngọn núi thấp chạy theo hướng Tây-Bắc – Đông-Nam, chúng tôi phát giác gần 25 cái chòi nhỏ, vuông, mỗi cạnh khoảng 3 thước. Sạp được lót bằng tre cách mặt đất khoảng 5 tấc. Các chòi này được bọc quanh bằng phên tre phết đất, cao khoảng 1 thước, bên trong chứa đầy lúa khoảng 8 tấc. Phần 2 tấc bên dưới chứa trấu. Ngăn đôi giữa lúa và trấu là một lớp lá rừng. Các chòi có nóc cao hơn 2 thước, lợp tranh, mái chòi chạm đất. Chòi đã thấp, lại được làm dưới tầng cây cao nên phi cơ quan sát khó thấy được. Tôi báo cáo lên FAC xin chỉ thị ở nhà và được lệnh cứ tiếp tục di chuyển. Hướng dẫn cho FAC thấy mục tiêu xong, chúng tôi sẽ di chuyển để FAC hướng dẫn khu trục đến oanh tạc bằng bom Napalm.
Tôi cho đốt một chòi để FAC thấy. Sau đó, toán chúng tôi di chuyển nhanh xuống triền núi. Lúa gặp tranh và phên tre nên bùng cháy rất nhanh. Lúa chỉ đổ tràn xuống thôi chứ không cháy được. Không biết bom Napalm có làm cháy hết số chòi lúa này không? Chung quanh không có rẫy trồng lúa. Di chuyển số lượng lúa này từ xa đến đây chắc địch phải mất rất nhiều ngày và nhân lực. Khi đến chân núi, chúng tôi thấy 2 chiếc F4-C Phantom từ trên cao bổ nhào xuống, thụt bom Napalm rồi bay vụt qua đầu chúng tôi. Tôi mong cho những đồi lúa bị cháy. Lúa đổ xuống đất chỉ cần có mưa hoặc sương đêm cũng đủ làm cho lúa nẩy mầm là không dùng được rồi. Buổi tối hôm đó chúng tôi đóng quân cạnh một con suối nhỏ. Trời vừa xụp tối đã nghe có tiếng xe di chuyển ở hướng Tây. Tiếng xe hú to chứng tỏ là xe đang phải chở nặng, hoặc cố vượt qua các dốc cao hay suối cạn. Tiếng bom B-52 nổ suốt đêm về hướng Bắc khiến mặt đất và cây cỏ rung lên từng chập sau mỗi đợt tiếng nổ. Tuy nhiên, sau đó đêm yên tĩnh…
Ngày N+2
Vừa di chuyển theo suối khoảng 200 thước, chúng tôi cặp dọc theo 2 bên con suối trong một khu rừng thấp và phát hiện một chỗ đóng quân cho khoảng từ 150 đến 200 người trở lên. Mỗi chỗ đóng quân cá nhân gồm có 2 cây thiên nhiên hoặc 2 cây trụ, đuợc chôn khoảng cách vừa tầm để buộc võng. Phía trên 2 cây có buộc một cây ngang để máng lều cá nhân. Hai cây ngang tôi đoán dùng để gác súng và một sạp nhỏ để ba-lô. Chung quanh thật sạch sẽ, không một ngọn cỏ, không một chiếc lá, chứng tỏ là được dùng đóng quân thường xuyên. Có lẽ đây là một binh trạm đóng quân của chúng giữa 2 chặng đường. Chắc chắn gần đây phải có nhà hoặc có cơ sở của binh trạm này. Tôi chụp hình và cho lệnh lục soát rất kỹ. Qủa nhiên trên một ngọn đồi thấp, cạnh con đường mòn lớn không có dấu vết xe di chuyển, chúng tôi phát giác 1 căn nhà sàn nhỏ và 4 căn nhà trệt nằm dưới cây cổ thụ cao. Chúng tôi dè dặt tiến vào. Đúng là một binh trạm rồi! Đồ đạc vất vương vãi, dép râu, điếu cày, mấy cái chén xanh và một cái tô mép mó. Dưới đất có 2 bếp nhỏ và mấy đôi đũa… chứng tỏ là địch đã bỏ đi thật gấp.
Một bàn viết làm bằng tre, ghế cũng bằng tre. Trên bàn có một lọ mực tím. Trên phên vách treo mấy cái áo trận đã rách, một tấm lưới bắt cá, lưỡi và dây câu. Chúng tôi lục soát thật kỹ và tìm thấy một tờ giấy nhỏ như giấy học trò, viết bằng mực tím. Giấy bị ướt nên chữ nhòe đi, không đọc được gì cả. Bốn căn nhà trệt có lẽ dùng để chứa lương thực vì thấy có ít gạo và bắp rơi xuống đất. Chúng tôi đốt tất cả 5 căn nhà này. Tiếng tre nứa cháy nổ ầm ầm như đụng trận. Chúng tôi di chuyển thật nhanh và tìm chỗ đóng quân đêm. Tối hôm đó vẫn còn nghe tiếng xe di chuyển mãi gần đến khuya mới dứt.
Ngày N+3
Buổi sáng hôm đó, FAC bay lên và chuyển cho chúng tôi một công điện: Cứ giữ hướng di chuyển cũ, chú ý lục soát kỹ, bung rộng trong trục tiến quân vì hướng này là một nhánh hay một xương sườn của đường mòn Hồ Chí Minh chạy vào Tam Biên. Công điện cũng cho biết thêm là trục tiến quân của địc vào Benhet chỉ chung quanh đây thôi. Tôi bàn với Thượng Sĩ Meadows, nếu lục soát rộng sẽ làm chậm sự di chuyển của toán. Meadows đề nghị chia toán ra làm đôi; lục soát rộng 2 bên bờ suối, cặp theo con đường mòn nhỏ mà chúng tôi đã gặp hôm qua. Tôi không đồng ý vì nếu chia đôi toán ra thì khó liên lạc và yểm trợ cho nhau. Trước nay, chúng tôi thường để một nửa toán nằm lại tại chỗ, còn một nửa toán kia đi lục soát để biết có điểm hẹn mà trở về. Chia đôi thì không đúng nguyên tắc, mặc dù có thể lục soát một chu vi rộng hơn.
Tôi vẫn giữ đội hình cũ và di chuyển chếch về hướng Bắc vì 2 đêm liền đều nghe thấy có tiếng xe di chuyền ở hướng này. Khoảng gần trưa, chúng tôi phát giác 2 căn nhà cất thật thấp trên một diện tích 8 x 10 thước. Nền nhà được đào sâu xuống khoảng gần một thước, đất được đắp chung quanh. Vì mái nhà cất chạm đất và lại ở dưới tàn cây cao nên đến gần chúng tôi mới phát hiện. Một thang gỗ khoảng 3 bậc dùng để lên xuống, hai bên là 2 dãy xạp tre. Đầu nhà phía bên kia cũng có thang lên xuống. Một phía đầu nhà có một chái nhỏ dùng làm bếp, có hai cái lò, một lò kẹp 2 con cá nướng còn đang nằm trên bếp. Cá đã cháy khét. Tôi thò tay vào tro thếy còn hơi âm ấm. Có lẽ tụi chúng đã bỏ đi chiều hôm qua. Căn nhà bên kia khoảng 4 x 8 thước, bên trong có một bàn viết, sạp ngủ làm bằng tre. Một quyển sổ bìa xanh loại giấy học trò ghi tên tuổi các bệnh binh. Có lẽ đây là một bệnh xá thuộc binh trạm mà chúng tôi đã phát hiện ngày hôm qua. Sổ ghi bệnh nhân phần nhiều là phù thủng, sốt rét và kiết lỵ. Tôi đếm và cộng lại sổ ghi mỗi tháng thấy có từ 17 đến 25 tên có mặt ở trạm xá này. Tổng số chết cũng gần chục tên. Bệnh xá có ghi tên một bác sĩ và hai hộ lý, đều là tên đàn ông. Như vậy, hộ lý và y tá cũng còn có tên riêng là nữ cán bộ, dùng để phục vụ sinh lý cho các cán bộ cao cấp địch. Chúng mày bỏ của chạy lấy người thì chúng ông đốt nhà chúng mày vậy. Chiều nay lại được dịp nghe tre nứa cháy nổ ầm ầm như pháo Tết! Đêm hôm đó nghe tiếng xe di chuyển gần chúng tôi hơn…
Ngày N+4
Buổi sáng sau khi báo cáo với FAC trong đêm an toàn, chúng tôi bàn với nhau: Qua phát hiện trong 2 ngày nay, chắc chắn tuyến đường xâm nhập vào vùng Tam Biên phải ở gần đây. Tuyến đường này gần như nằm song song với trục tiến quân của chúng tôi. Có thể là hướng Bắc của con suối hay nằm ở phía Nam con suối. Tôi quyết định đổi hướng và toán di chuyển về hướng Bắc, không tiến vào mục tiêu như đã dự trù. Tôi liên lạc với FAC cho biết ý định mới của toán và chiếu gương xin FAC xác nhận vị trí điểm đứng của toán. FAC cho tọa độ hiện tại của toán, so với tọa độ chúng tôi xác định thì chỉ cách nhau không qúa 100 thước. Chúng tôi tiến về hướng bắc di chuyển khoãng 200 thước; toán phát giác một đường mòn nhỏ bề ngang khoãng hơn một thước láng, sạch, không có một cọng cỏ. Theo kinh nghiệm thì đường mòn như thế này phải được sử dụng hàng ngày rồi. Tôi bước dọc theo lề đường khoảng 10 thước, nhìn về phía Tây khoảng 100 thước thì bị che khuất. Có lẽ đó là khúc quanh mà con đường chạy theo đoạn cong của dòng suối.
Quan sát về phía Đông của đường mòn thấy xa hơn khoảng 200 thước thì con đường đi xuống thấp dần, vì đường mòn chạy theo triền đồi thoai thoải xuống. Vừa định lấy máy hình ra chụp, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào về hướng Tây. Vội thụt lui vào phía trong thì đã thấy một đoàn người vừa xuất hiện ở khúc quanh con đường. Dẫn đầu là một tên quần xanh, áo trận vàng, đầu đội nón cối, tay cầm một cây gậy dài, vai quàng một miếng vải dù bông, vừa chạy vừa hô: ”Khẩn trương – Khẩn trương – Khẩn trương”. Phía sau là một đoàn người gần như chạy lúp xúp mặc đồ trận xanh, nón cối, giầy vải, khiêng những khúc dài được bọc bằng giấy mầu ô-liu, không biế là sơn pháo hay phòng không. Có tên gánh, có khi cả 2 tên khiêng một thùng gỗ hoặc thùng sắt. Tôi đứng như trời trồng vì chỉ cách chúng không đầy 5 thước! Bờ suối thì cũng cách tôi khoảng chừng 5 thước.
Tôi nhích dần, nhích dần xuống suối. Nếu trời xui khiến chỉ cần có tên nào dừng lại là thấy tôi ngay. Tôi nhìn Thượng Sĩ Meadows và 2 tiền sát viên Lý A Dưỡng và Wòng A Cầu đang nằm bẹp bên bờ suối, nước tới thắt lưng, mặt người nào cũng nghệt cả ra. Cuối cùng, tôi cũng thụt lui tới mép suối. Tôi vừa ngồi thụt xuống bờ suối thì đoàn quân của địch cũng vừa vượt qua. Tôi nhích dần về phía Thượng Sĩ Meadows, đưa ngón tay ra dấu hiệu đúng là mục tiêu rồi. Tôi hỏi nhỏ: ”Mày đoán xem đoàn quân vừa đi qua độ chừng bao nhiêu?”. Nó đoán khoảng hơn 150 người. Tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu nói khoảng 300. Tôi đoán trên dưới cũng khoảng 200 thôi. Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows trở về phía bên kia suối bảo Trung Sĩ Charles liên lạc với FAC báo cáo hiện tình. Để thằng Dưỡng ở lại với tôi, tôi bảo thằng Cầu cho toán nhích sâu vào trong thêm 15 thước trên một ngọn đồi nhỏ. Chờ khoảng không hơn 20 phút sau cũng không thấy toán quân địch nào di chuyển qua. Thượng Sĩ Meadows lội sang, tay cầm máy quay phim. Cùng lúc này, tôi nghe tiếng phản lực cơ gầm thét cùng với tiếng ầm ầm ở hướng Đông mà đoàn quân xâm nhập của địch vừa đi tới. Thượng Sĩ Meadows nói nhỏ vào tai tôi: ”Tôi đã liên lạc với thằng FAC, nó điều động các phản lực cơ đang có mặt ở trong vùng ưu tiên đánh cho bọn mình. FAC cũng cho biết đã xin các phi xuất từ Đà Nẵng đang trên đường đi yểm trợ theo lời yêu cầu và hướng dẫn của toán.”. Nó còn cho biết thêm là đã cẩn thận trải panô bên kia bờ suối khoảng 10 thước và FAC đã thấy tọa độ của mình rồi. Tôi cũng khoái. Như vậy là chắc ăn như bắp. FAC cũng khôn, nó chỉ bay ở xa xa chứ không ở trên đầu chúng tôi.
Ở bờ suối bên này chỉ có tôi, Meadows và thằng Dưỡng. Thằng Meadows gần như nằm hẳn xuống suối, từ thắt lưng trở xuống ngâm hẳn dưới nước suối. Nó để máy quay phim ghếch ống kính lên chờ quay. Tôi đứng rùn người, hơi nghiêng bên cạnh thân cây gỗ mục chờ chụp hình. Khoảng 15 phút sau, ở khúc quanh hướng Tây xuất hiện một toán khoảng chừng 15 tên, vượt qua chỗ chúng tôi đang núp với những bước chân sải thật dài. Cũng quân phục xanh, nón cối, giầy vải và dép râu lẫn lộn, lưng mang balô có vắt nhánh cây. Tên nào cũng chống một cây gậy nhưng không thấy mang vũ khí hay khiêng vác vật gì cả, khác với toán vừa vượt qua. Toán này tất cả đều sồn sồn khoảng 40-50 tuổi.
Mặc dù tiếng suối chẩy rì rào nhưng tiếng máy chụp hình của tôi cũng nghe rõ mồn một. Tôi quay sang Meadows, mặt nó đỏ ngừ, đang loay hoay với cái máy quay phim bị trở ngại sao đó. Nó nhích dần về phía tôi nói nhỏ: ”Tôi đem máy trở qua bên kia cho thằng Charles coi lại, không hiểu tại sao máy lại tự nhiên không ”run” ?”. Tôi ra dấu cho nó ngầm bảo được rồi và đưa máy chụp hình ra nói nhỏ: ”Đừng lo, còn có cái này.”. Khoảng 10 phút trôi qua, chúng tôi lại thấy một toán nữa xuất hiện. Quân phục cũng giống như toán vừa vượt qua lúc đầu. Cũng khá đông, gần 100 tên. Không biết thuộc đoàn vừa qua rớt lại phía sau, hay chúng chia ra từng nhóm nhỏ để tránh phi cơ quan sát thấy. Đặc biệt nhóm này không có tên dẫn đường. Toán này vượt qua được gần 20 phút rồi mà vẫn không thấy thằng Meadows quay trở qua. Tôi ra dấu cho thằng Dưỡng trở về bờ suối bên kia. Thằng Meadows đang nhăn nhó lắc đầu cho biết máy quay phim của nó không sử dụng được. Tôi nói: ”Tao chụp được nhiều hình lắm rồi”. Trong lúc đó phản lực cơ đang thả bom ầm ầm ở hướng Đông. Tiếng bom nổ như sát bên cạnh chúng tôi. Lúc này đã hơn 12 giờ trưa, mấy thằng nhỏ của tôi chắc cũng có gì bỏ bụng rồi. Tôi ra dấu cho thằng Meadows kiếm gì ăn đi. Nó lắc đầu và đưa bi-đông nước lên làm dấu. Tôi thấy thằng này đi hành quân ăn rất ít, thường thường chỉ một hộp trái cây nhỏ cho cả ngày.
Tôi liếc một vòng thấy mấy thằng nhỏ đang ẩn nấp thật kỹ sau những thân cây to. Tôi, thằng Meadows và Charles bắt đầu hướng dẫn cho FAC đánh chính xác hơn. Giờ phút này, ở con đường mòn phía bên kia bờ suối lại thấy xuất hiện một toán quân khác. Đoàn này trang phục cũng quần áo trận xanh, lưng đeo ba-lô vắt lá ngụy trang. Đặc biệt tất cả đều mang vũ khí cá nhân, phần nhiều là AK-47, không thấy có súng lớn như đoàn đầu tiên. Chúng gần như dồn cục vào nhau, vừa đi vừa chạy. Nhờ tấm pa-nô trải làm dấu phía sau chúng tôi nên FAC thấy vị trí toán rất rõ. Do đó, lần này khu trục đánh bom con đường mòn trước mặt chúng tôi không qúa 50 thước. Nghe tiếng khu trục gầm thét, bọn chúng ngừng lại và đứng tạt ra hai bên đường. Một tràng đại liên từ khu trục bắn cày dài theo mặt đường tới bờ suối bên kia. Bị khu trục bắn thẳng vào đoàn quân nên chúng chạy náo loạn và kêu la ầm ĩ. Vì rừng già nên bên dưới rất trống trải nên thấy có rất nhiều xác chết nằm rải rác trên đường. Một số tạt về phía bờ suối hướng toán chúng tôi đang đứng phục kích. Lần này, khu trục bắn nhiều tràng đại liên dọc theo bờ suối. Lại nhiều tên nằm bên bờ suối bị ngã gục.
Về hướng Bắc cây cối thưa hơn nên chúng tôi quan sát thấy có thêm một toán địch mới xuất hiện. Chúng bị dồn cục lại và nằm phục 2 bên con đường. Thằng Meadows vội giành lấy ống liên hợp trong tay thằng Charles, hướng dẫn FAC đánh mục tiêu hướng Tây Bắc và hướng Bắc. Có lẽ chúng thấy khu trục chỉ bắn con đường mòn và phía bờ suối nên đổ dồn về phía này.
Hết khu trục A1-E rồi phản lực F4-C thay phiên nhau quần thảo phía Bắc con suối, cách chỗ chúng tôi khoảng 50-60 thước. Tiếng bom, tiếng đạn và tiếng la vang từng chập. Tiếng bom đạn vừa ngừng là bọn chúng lại chạy về hướng Đông của đường mòn. Chưa bao giờ tôi thấy khu trục yểm trợ ngoạn mục như vậy. Nhiều tràng đại liên cài dọc theo con suối chỉ cách chúng tôi không qúa 50 thước. Tôi nghĩ chỉ cần một viên đạn ”bụi đời” bỏ đi bậy bạ là toán chúng tôi có người bỏ mạng rồi. Phi cơ đánh từ Đông sang Tây phía trước mặt chúng tôi. Hướng Bắc không nhìn thấy địch nhưng về hướng Tây trên một ngọn đồi thấp có nhiều tảng đá to, tôi thấy địch đang tập trung và ẩn nấp quanh mấy hòn đá lớn lố nhố.
Tôi ra dấu cho Thượs Sĩ Meadows lại gần chỉ cho nó thấy và nói: ”Mày gọi FAC và xin 2 phi xuất Napalm đi”. Nó nói OK và bò lần về phía thằng Charles. Trong lúc đó ở hướng Đông Bắc bỗng có đại liên phòng không 37 ly nổ ”chụp chụp”. Từng cụm khói trắng bung lên mỗi lần phi cơ đảo xuống. Không biết FAC có điều động không nhưng tôi thấy có một khu trục tách ra, lao về hướng có phòng không vừa bắn lên. Sau mấy loạt đạn và 2 tiếng bom nổ, súng phòng không này im luôn. Không biết bị tiêu diệt hay tụi nó sợ không bắn nữa.
Thượng Sĩ Meadows bò lại cho biết sẽ có trực thăng võ trang bay lên yểm trợ. Tôi nói ”Good!”. Vừa nói xong thì tiếng lạch bạch của 4 trực thăng võ trang Cobra cũng vừa lao tới. Hai chiếc bay vòng bên ngoài, hai chiếc kia lao vào phụt rocket và đại liên. Hỏa lực trực thăng cũng mạnh lắm nhưng tụi địch không ngán trực thăng, vì chúng tôi nghe thấy nhiều tràng AK bắn lên phi cơ. FAC có lẽ được trực thăng báo cho biết có hỏa lực bên dưới bắn lên nên nó bay vào vùng mục tiêu và đảo trên đầu chúng tôi. Mấy tên sống sót từ trưa đến giờ nhờ núp bên mấy khe đá, thấy ngọn đồi bên phía chúng tôi đang đứng không bị oanh kích cho nên tôi nghe tiếng la: ”Tất cả tiến sang bên phải”. Hai, ba tên lụp xụp bám thành suối leo lên chạy về hướng ngọn đồi chúng tôi đang bố trí. Hai thằng chạy đầu vừa lên khỏi bờ suối bên này thì ”rẹt rẹt”, thằng Dưỡng nhả 2 loạt súng giảm thanh. Hai tên này gục xuống. Thằng thứ ba vội tụt xuống, lui lại nấp vào hòn đá to giữa suối. Thằng Dưỡng khạc thêm mấy loạt đạn nữa nhưng đạn chỉ chạm vào đá rồi rớt xuống suối nghe bụp bụp. Bỗng tên này la to ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Thằng Sáng lanh lẹ thẩy một trái mini sau lưng tên này. Tiếng nổ của lựu đạn mini hất tung nó lên, phơi nửa người nằm trên phiến đá.
Sau tiếng lựu đạn, tôi nghe có nhiều tiếng la ở hướng Tây ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Tôi ra dấu cho cả toán chuẩn bị. Chúng tôi đã bị địch phát giác rồi. Có thêm mấy bóng theo các thân cây khum khum tiến về phía chúng tôi, bắn mấy loạt đạn AK dò dẫm. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn dẫn bán tổ rút trước về hướng Nam. Bán tổ còn lại cũng rút chầm chậm theo. Giờ này ở bờ suối bên này đã có khoảng mười mấy tên bò lên đồi rồi. Thằng Meadows từ sáng tới giờ chắc cũng ngứa tay nên chồm lên nhả nguyên một loạt đạn. Tiếng AK bắn ào ào xả vào chúng tôi lúc chúng tôi vừa yểm trợ cho nhau vừa rút.
Bốn chiếc trực thăng đảo qua đảo lại, bắn đại liên ngăn chặn phía sau chúng tôi. Vỏ đại liên và sắt két đạn rơi lên đầu lên cổ chúng tôi nóng bỏng. Có lẽ tụi trực thăng thấy chóp mũ chúng tôi có dấu hiệu mầu cam nên tụi nó bắn thật chính xác, không sợ lầm vào quân bạn. Mặc dù trực thăng yểm trợ rất mạnh, thế mà tụi nó cũng đuổi theo chúng tôi hơn 500 thước. Lúc này cũng gần 6 giờ chiều. Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu thấy đói và khát. Tôi ra dấu cho toán ngừng lại để bố trí ăn cơm. Từ sáng đến giờ, vì qúa mệt và căng thẳng nên tôi chỉ nuốt trôi nửa lon Fruit-Cocktail.
Trong công điện buổi trưa chúng tôi nhận được thì Chiến Đoàn cho lệnh ngày mai chúng tôi phải tìm bãi đáp triệt xuất gấp. Tôi đoán B-52 sẽ ”tapi” vùng này khi chúng tôi triệt xuất ra xong. Sau khi dùng cơm chiều, chúng tôi chờ trời tối hẳn mới di chuyển khỏi nơi này khoảng 200 thước tìm chỗ đóng quân. Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe từng tràng tiếng nổ ầm ầm. Mỗi lần sau tiếng nổ là ánh sáng lóe lên, sáng như ban ngày. Thằng Meadows cho biết máy bay C-47 đang ”chụp hình” tụi nó bằng bom! Lần đầu tiên tôi mới nghe như thế. Cuộc chiến này có nhiều điều thật mới lạ. Vì sợ tụi VC theo dõi đột kích trong đêm nên tôi cứ chập chờn không dám ngủ.
Ngày N+5
Buổi sáng báo cáo với FAC xong, chúng tôi cho biết là bãi đáp triệt xuất chưa có. FAC hướng dẫn chúng tôi về phía Tây Nam khoảng 300 thước thấy có một bãi đáp nhỏ, có thể dùng để triệt xuất được. Trong lúc chuẩn bị di chuyển, tôi nhìn về phía Đông Nam khoảng 300 thước thấy hình như có một làn khói nhỏ lơ lửng bay lên. Tôi chỉ cho thằng Meadows, nó nói có lẽ là sương. Buổi sáng nắng lên làm tan phần sương trên ngọn cây nên nhìn thấy có ánh sáng mầu vàng lợt. Nhưng nếu nhìn từ mặt đất trở lên 2-3 thước thì thấy sương mù còn lãng đãng. Quan sát một hồi, thằng Meadows nói có lẽ là khói. Tôi cũng còn chưa quyết định hẳn đây là sương hay khói. Nếu là khói thì có lẽ vì các đám cháy do bom đánh ngày hôm qua tạo ra. Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy làn khói bay lên thẳng như tạo ra bởi một đống lửa nhỏ, giống như khói bếp vậy. Hướng này là hướng con đường mòn chạy bọc theo suối, trải dài về hướng Đông mà các phi tuần phản lực đánh chặn địch ngày hôm qua. Thay vì di chuyển về hướng Tây Nam theo phi cơ quan sát chỉ để tìm bãi đáp, tôi cho toán di chuyển về hướng Đông Nam, tiện việc lấy nước ở suối và quan sát xem đó có phải là khói không?
Chúng tôi thấy cạnh con suối có một căn chòi nhỏ. Kích thước chòi này cũng giống như những căn chòi mà chúng tôi phát hiện có lúa mấy ngày trước. Chòi không có lúa, chỉ còn lại toàn trấu. Vì được cất gần suối nên sàn nhà cao hơn một thước. Chúng tôi tản ra và chuẩn bị ăn sáng. Từ hôm đi đến nay mới nghe thằng Charles mở miệng: ”Nếu được phép ngủ, tôi sẽ nằm dưới chòi này ngủ 3 ngày liền”. Trong toán, nó là thằng phải mang nặng nhất. Ngoài những trang bị như mọi người, nó còn cõng thêm một máy truyền tin PRC-25, một máy ngụy tần số gắn liền với PRC-25 cộng thêm một cục pin trừ bị. Nghe nó nói muốn ngủ, mắt tôi cũng muốn sụp xuống! Tôi tháo ba-lô ra, tròng giây súng vào cổ, bước lên một thân cây to đổ vắt ngang qua suối để ra giữa suối khoát nước rửa mặt. Vừa ngồi xuống, chưa kịp đưa tay khoát nước, nhìn về phía trái khoảng 15-20 thước tôi chợt thấy có móc 3-4 chiếc võng. Có chiếc còn căng poncho làm lều. Tôi đưa tay ra dấu có địch, nhưng ngoái lại chẳng thấy có đứa nào nhìn thấy thủ hiệu của tôi cả. Ai nấy đang chuẩn bị ăn sáng! Tôi vừa thụt lui nhưng mắt vẫn quan sát mấy cái võng, tay vẫn đưa ra sau làm dấu có địch. Chân tôi vừa đặt suống đất thì Thượng Sĩ Sơn cũng vừa ngó thấy thủ hiệu có địch của tôi. Nó chồm tới phát vào vai thằng Dưỡng và thằng Meadows ngồi gần đó, ra dấu có địch. Bây giờ thì cả toán đã được báo động. Tôi cho toán biết là quan sát thấy có 3-4 cái lều võng nhưng không thấy có người. Tôi cho lịnh rất nhanh: Tôi, thằng Dưỡng và thằng Meadows bò qua trước. Thượng Sĩ Sơn, thằng Cầu, thằng Sáng yểm trợ. Phần còn lại bố trí bên này.
Buổi sáng nước lạnh như nước đá, cũng may nước chỉ cao hơn đầu gối một chút thôi. Chúng tôi bò lên khỏi bờ suối khoảng ba thước thì thấy một tên từ võng ngồi dậy. Thằng Dưỡng hốp tốp kêu: ”Đứng dậy – Dơ tay lên!”. Tên này đang lúng túng, có lẽ còn vướng một chân trên võng nên chưa bò xuống được. Tôi và thằng Meadows vọt nhanh tới. Thằng Meadows nắm vai tên này lật té xuống đất. Hai tên khác vụt bỏ chạy. Hai tên này đang ngồi khuất dưới đất nên chúng tôi không thấy. Thật nhanh, thằng Dưỡng đưa nguyên một băng giảm thanh. Một thằng ngã, còn thằng kia chúng tôi thấy nó phóng xuống đất, nhưng khi chạy đến tìm thì không thấy có máu và người đâu cả. Tên kia bị bắn trúng, lãnh cả gần chục viên ở bụng. Tôi quay trở lại chỗ thằng Meadows thì thấy nó đã còng tay tên vừa bắt được bằng còng nylon, miệng dán băng keo xanh.
Bỗng tôi nghe tiếng Thượng Sĩ Sơn hô: ”Đứng lên! Đưa 2 tay lên khỏi đầu”. Thì ra cách chúng tôi khoảng 5-6 thước có một tên khác đang đi cầu. Thấy lộn xộn nó ngồi im tại chỗ, nhưng không ngờ bị Thượng Sĩ Sơn phát giác. Tên này đứng lên, 2 tay đưa lên đầu nên không kéo quần lên được, để ”Bác Hồ” lòng thòng coi tức cười qúa. Thượng Sĩ Sơn bước đến, chĩa súng sau lưng nó nói: ”Cài quần lại!”. Tên này lúng túng kéo quần lên, miệng hỏi: ”Các đồng chí ở đơn vị nào?”. Thằng Cầu nạt: ”Im mồm mày!”. Nó được dẫn lại gần chỗ tôi và thằng Meadows đang đứng. Thấy thằng Meadows to lớn như con gấu, râu ria 5-6 ngày chưa cạo thì nó biết ngay chúng tôi là ai rồi nên không hỏi nữa. Thằng Meadows kéo tay nó xuống, quặt ra sau lưng tròng dây còng vào. Nó dẫy dụa nói: ”Các anh phải đối xử tử tế với tù binh”. Thằng Cầu đá vào đít nó rồi nói: ”Con c… ông nè chứ tử tế. Tụi mày bắt được tụi tao có tử tế không?”. Thằng Meadows trong tay đã cầm sẵn miếng băng keo chụp dán miệng tên đó câm luôn.
Tôi ra dấu rút. Trong lúc Thượng Sĩ Sơn và tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu hối hả tháo võng và lều bỏ vào ba-lô tụi nó, nhìn thấy cây AK dựng ở góc cây, tôi chỉ thằng Sáng cho nó cầm luôn. Chúng tôi trở qua chòi họp toán lại rồi bắt đầu rút. Thằng Meadows nói nhỏ với tôi: ”Sir, chờ tôi báo cáo với FAC biết mình đã bắt được 2 tù binh rồi hãy di chuyển”. Trông gương mặt nó vui như được kẹo. Tôi lẩm bẩm trong bụng “Tiên sư anh. Có chiến lợi phẩm anh gọi tôi bằng Sir ngọt sớt.”. Tôi nói OK và tính rất nhanh trong đầu. Nếu di chuyển đến bãi đáp do FAC chỉ lúc ban sáng thì qúa xa. Vướng 2 tên tù binh không di chuyển nhanh được, lỡ chạm địch lại càng thêm rắc rối. Nếu mấy tên này thuộc toán tiền tiêu của đơn vị địch thì tên chạy thoát vừa rồi về sẽ báo cáo, và lúc đó địch sẽ truy kích chúng tôi ngay.
Thằng Meadows đưa ngón tay cái lên làm dấu là đã báo cáo cho FAC xong. Tôi cho nó biết mình phải phá cây làm bãi đáp cho trực thăng xuống. Nó không suy nghĩ nói OK ngay. Tôi quan sát thấy hướng Đông Nam có đám rừng thưa, toàn là cây chồi, không to lắm. Tôi cho lịnh toán tiến về hướng đó. Đi được khoảng 200 thước thì thấy dưới triền đồi hơi thoai thoải, rừng thưa, cây to chỉ bằng bắp vế. Đảo mắt nhanh một vòng, ước lượng chu vi rộng đủ cho một trực thăng đáp xuống được mà cánh quạt phải không chém vào cây, tôi quyết định chọn nơi này làm bãi đáp. Vì là triền đồi nên nước chẩy xuống tạo thành một khe khá sâu như một con suối cạn. Tôi bảo đẩy 2 thằng tù binh xuống dưới đó. Định tọa độ xong, đưa cho thằng Charles gửi lên cho FAC. Một mặt, tôi cho lấy giây chuyền nổ quấn chung quanh các thân cây, định bụng sẽ cho nổ mấy cây này trước vài phút để lấy chỗ cho trực thăng đáp xuống. Nuôi quân 3 năm, xài trong 15 phút. Với tay nghề của thằng James và 2 toán viên của tôi, việc dọn bãi trực thăng bằng chất nổ là 1 trong 15 bài dễ nhất của khóa “”Mìn bẫy & Phá hoại”. FAC cho biết trực thăng đã cất cánh. Nhìn đồng hồ, tôi tính phải 40 phút nữa trực thăng mới tới.
Đi một vòng thấy mấy thằng nhỏ bố trí và cảnh giác cao nên tôi ngoắc thằng Meadows lại chỗ con mương, nơi Thượng Sĩ Sơn đang giữ 2 tù binh. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn lên, tôi và thằng Meadows nhẩy xuống. Tôi phải khai thác tụi này vài câu mới được. Nhỡ khi bị địch truy kích, chắc chắn là phải thanh toán 2 tên này. Biết được vài tin tức, ít ra cũng được một vài tin để báo cáo. Trong 2 tên thì tên lớn tuổi bị bắt lúc đi cầu đang dãy dụa như muốn tháo dây còng, miệng cứ ú ớ hoài. Thượng Sĩ Sơn nói: ”Nó đi cầu chưa chùi nên thúi hoắc à”. Meadows ngó tôi hỏi Sơn nói gì? Tôi nói “Nó bảo kỳ này về mày sẽ được lên lon”. Thằng Meadows cười, biết là tôi nói đùa với nó.
Tôi gỡ băng keo khỏi miệng 2 tên tù binh rồi nói: ”Các anh hãy ngoan ngoãn, đừng có chống cự gì cả. Bắt buộc vì an toàn, chúng tôi mới phải còng các anh lại thôi”. Tôi nhìn tên lớn tuổi nói tiếp: ”Loại còng này anh tuột không thoát được đâu. Càng dãy dụa, răng cưa càng xiết chặt. Bây giờ tôi muốn mở ra cũng không được, vì răng cưa vào thì xuôi, còn tháo ra thì ngược. Đợi về đến nhà có kềm tôi sẽ cắt ra”. Tôi chỉ vào tên nhỏ tuổi nói: “Ngoan ngoãn như thế này có phải tốt không?”. Tôi hỏi bọn nó có muốn uống nước không? Chỉ có tên nhỏ gật đầu. Tôi lấy bi-đông cầm cho nó uống. Hỏi có muốn hút thuốc không? Tên nhỏ gật đầu. Tôi ra dấu xin Thương Sĩ Sơn điếu thuốc. Thượng Sĩ Sơn đưa cho tôi một nửa điếu thuốc Pall-Mall. Tôi mồi lửa rồi cầm cho tên tù binh nhỏ tuổi hút. Tôi hỏi nó: ”Thuốc lá của Đế Quốc Mỹ đó, có ngon không?”. Nó gật đầu.
Tôi bắt đầu hỏi tên tuổi và đơn vị tên nhỏ trước. Nó cho biết tên là Nguyễn Tiến Hùng, 19 tuổi, quê ở Phú Thọ, thuộc đoàn Khánh Hòa 13. Từ ngày khởi hành xâm nhập vào Nam, tính đến ngày hôm nay bị bắt đúng 2 tháng. Nó cũng cho biết ngày hôm qua, đoàn của nó bị phi cơ oanh kích, thiệt hại rất nặng. Nó vàmột nhóm chạy toán loạn nên đã thất lạc đơn vị. Nó cũng nói thêm là đoàn của chúng nó bị thiệt hại nặng vì có Biệt Kích gián điệp chỉ điểm. Nó cho biết đoàn của nó là đơn vị vào Nam để bổ sung thôi. Lúc ra đi quân số là 300. Gần 100 tên rơi rớt lại tại các binh trạm, bị phù thủng, sốt rét, kiết lỵ và ”B quay”. B quay là đào ngũ, bỏ trốn về lại miền Bắc. Tôi mở ba-lô của nó ra xem thì thấy ngoài tấm bạt nylon còn có võng, một bộ đồ xanh ô-liu, một chăn mỏng mầu vàng, một mặt nạ phòng hơi độc, hai thỏi lương khô, một chén nhôm xanh, tất cả đều có dấu sản xuất tại Trung Cộng. Đặc biệt trong ba-lô có một tờ giấy thuộc loại nylon, không thấm nước, không bị mục và không bị mối ăn. Đấy là một loại truyền đơn mà chúng tôi thường bắt gặp, rải rất nhiều trong rừng. Trong đó có một bài thơ lục-bát, nội dung nói đại ý là người con vào Nam ngồi nhớ mẹ nơi đất Bắc, không biết số phận của mình và của mẹ già ra sao? Bài thơ được in chồng lên hình người lính Bắc Việt đang ngồi ôm súng gục đầu. Có lẽ truyền đơn này của một cơ quan tuyên truyền Hoa Kỳ, vì bài thơ có nhiều chữ không bỏ dấu. Nếu thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thì chắc chắn không có khuyết điểm này.
Tên lớn tuổi quê ở Thái Bình, 24 tuổi, tên Lê Văn Thành. Tôi hỏi: ”Các anh nói thất lạc đơn vị sao không đi tìm mà còn đóng quân ở đây?”. Nó nói phải chờ xem có còn bị phi cơ oanh kích nữa không, rồi mới tìm đường trở về binh trạm hôm trước chờ giải quyết, vì nếu không có giao liên thì không biết đường tới binh trạm sắp đến. Tôi xếp sổ tay lại, thấy hỏi như vậy cũng đủ rồi. Tôi không có đủ thời giờ, vả lại nên dành cho Ban Thẩm Vấn Tù Binh vì họ có kỹ thuật và kinh nghiệm nhiều hơn. Nhìn đồng hồ thấy còn gần 5 phút nữa trực thăng mới tới, tôi hỏi vớt tên Hùng thêm một câu: ”Ngoài Bắc anh có thấy cố vấn Nga không?”. Nó lắc đầu và cho biết: “Nghe nói các cố vấn người Nga chỉ ở các đội tên lửa mà thôi”. Tôi quay sang thằng Meadows nói tóm tắt cho nó biết. Thôi đủ rồi. Quăng ba-lô của 2 thằng tù binh lên trước, tôi và thằng Meadows leo lên sau rồi đưa tay kéo 2 đứa chúng nó ra khỏi rãnh nước.
Tiếng trực thăng H-34 nghe phành phạch từ xa. FAC đảo thật thấp trên đầu chúng tôi. Trực thăng võ trang cũng vừa tới, tuôn đại liên và rocket chung quanh bãi đáp. Thằng James và tụi thằng Cầu, thằng Sáng nhào ra tới các thân cây đã quấn giây chuyền nổ sẵn để giựt kíp nổ. “Ầm – Ầm – Ầm”. Năm sáu cây ào ào ngã xuống. Theo tiêu lệnh, 2 tù binh và bán tổ của toán lên trực thăng đầu tiên. Nhóm của tôi và thằng Meadows luôn luôn xuống trực thăng trước và lên trực thăng sau cùng. Thằng Nghĩa đáp xuống, thò đầu ra cửa sổ đưa tay vẫy tôi và đưa một ngón tay cái lên. Tôi cười và vẫy tay ra dấu đáp lại. Cây cối ngã ngổn ngang nhưng nó đáp xuống cũng đẹp lắm. Bánh xe trực thăng đặt gần chạm đất, do đó tụi tôi đỡ 2 tù binh bị trói tay bước lên bậc thang trực thăng cũng dễ. Trực thăng của thằng Nghĩa vừa kéo lên khỏi ngọn cây thì chiếc kia của thằng Hiếu cũng đáp xuống liền trong tích tắc.
Ngồi trên trực thăng bay về Dakto tôi nghĩ thầm: ”Khi giải trình hành quân, tôi sẽ cho biết địch bị phi cơ oanh kích chết hai, ba trăm tên. Không biết mọi người có tin không?”. Ôi mà cần gì? Hai tên tù binh này sẽ trả lời thay tôi. Tôi liên tưởng tới Đoàn Khánh Hòa 13 gần như bị tiêu diệt hết. Con số 13 đúng là xúi quẩy. Mặc dù tiếng cánh quạt trực thăng và tiếng gió thổi ào ào nhưng thằng Meadows ngồi ở cuối trực thăng cũng cố gào to:
-o- Tối nay 7 giờ, tôi chờ Sir ở Câu Lạc Bộ nghe?
-o- Tôi đáp: “OK”.
Lê Minh
Nước Non Xứ Lào
Nhớ nước non xứ Lào .
Trên chiếc phi cơ loại L 20, do phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu, và một Ðại tá Mỹ ngồi băng giửa; băng sau tôi, và Nguyễn thái Kiên; khoang sau là 2 túi dù, đựng hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc có lẻ sau hơn 1 năm, từ Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đổi về Sở Liên Lạc, sống gần gia đình. Nên bửa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng?
Sau khi tôi học xong khóa 58 B nhảy dù (chỉ có tôi từ Biệt Ðộng Quân về, chưa có bằng dù phải đi học thôi), chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Phạm văn Hy và tôi, lên Trung tâm huấn luyện Long-Thành để nắm toán trưởng.
Cũng nên nói rỏ là: các toán viên đã được huấn luyện thuần thuộc rồi. Mổi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9 Việt nam (hoằc Nùng). Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ để đặt. Nhưng chúng tôi dùng tên toán 1, 2, 3, 4, 5 vân vân. Mấy tuần sau Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5.
Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ thêm về các loại mìn bẩy, và phá hoại; cùng xữ dụng các loại vũ khí của nước khối cộng-sản. Học điều không tiền tuyến, hướng dẩn phi cơ, chỉ điểm oanh kích. Câu dây trực thăng. Riêng về các bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt; như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như các bài học chiến thuật, dạy tại các quân trường.
Riêng phần tôi đã qua 2 khóa : Căn-bản Biệt động quân, và Hành-quân Biệt-động-Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi .
Chúng tôi cũng được thực tập hành quân vùng sông Lá buông, mổi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong toán ăn khớp với nhau. Về đi hình di chuyển hay vị trí, và xữ dụng vũ khí của mổi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý, không có ý kiến gì dị biệt giửa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one-zero ( Team-Leader ) one-one ; one-two.
Ðội hình nếu hành quân 6 người thì toán trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì mấy chuyến thực tập, tôi vẩn ở vị trí như vừa nêu. Các toán trưởng khác cũng làm như thế, nhưng có điều khi liên lạc với phi cơ, thì one-zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dể hiểu thôi, vì không có người VN ngồi tiền-không-sát. Nghiểm nhiên người cầm ống liên hợp, điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây. Phe ta muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.
Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long thành, từ chổ ăn, chổ ngũ, cũng có người lo, quân trang quân dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy, thì họ đâu có chiụ. Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt, nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ lại lúc ở Biệt-động-quân, mấy tên cố vấn dể thương kể gì. Sợ sỉ quan chúng tôi ra phết. Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung-úy Trần-thụy-Ly, sỉ quan liên lạc, hướng dẩn, để trình bày lên thượng cấp. Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ, tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngôi trên phi cơ tháp tùng với Ðai-tá Hồ-Tiêu để đi qua Lào .
Ðược biết Sở-liên-lạc có nhận yểm trợ cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu đoàn của Hoàng-gia Lào. Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây? Lúc ở phi trường Tân sơn nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với phi hành đoàn, là phi cơ sẻ ghé Ðà nẳng, để cho vị Ðại tá Mỹ xuống, và đổ xăng luôn. Xong, ra Ðông hà đón 1 sỉ quan Lào, sau đó phi cơ sẻ đáp ở Khe-sanh, và vị sỉ quan Lào này sẻ hướng dẩn phái đoàn qua Tchépone.
Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc, vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu thuyền qua lại rất rỏ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho. Hai ông Ðai-tá vẩn rì rầm nói chuyện. Lúc này tôi bổng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị củ mt chút nhé!
Lúc tôi nhận được công điện của Bộ Tổng Tham Mưu về Sở Liên Lạc. Tôi nghỉ chắc có lẻ do ông NQT, tham mưu trưởng SÐ dù xin đây. Thôi thì phen này, sẻ giả từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964 các đại đội biệt lập BÐQ tuy là đã sát nhập lại thành Tiểu đoàn rồi. Nhưng các đại đôi vẩn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu, ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa đưa sỉ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẩn phải chờ khoảng gần tháng sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị một trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình long xuống Lai-khê. Ðại đôi tôi vừa ra khỏi quận Chơn thành hơn 1 cây số thì bị phục kích. Các đại đi đang đóng ở Tân Khai, Tàu ô, vi đi tiếp viện, liền bị chiến thuật ’công đồn đã viện’ của địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu đoàn chết mất 5 sỉ quan, đại đôi tôi, 1 SQ chết 1 SQ bị thương; phần binh sỉ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đi tôi sau trận này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sỉ quan xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sỉ khóc than, chồng vừa chết, đại đi như còn chưa ổn định tinh than. Ở hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đi trưởng bị thương, Thiếu úy Tùng trung đi trưởng trung đi 1 chết. Ðại đi chỉ còn tôi là sỉ quan; nên kiêm luôn Ðại đi trưởng. Do đó tôi về trình diện SLL trể hơn 3 tháng. Một phần tôi dùng dằng không muốn rời đại đội, vì đại đội này, là đơn vị đầu tiên, tôi phục vụ khi mới ra trường sỉ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt. Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu cứ đại đội, vì lạ chổ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngũ được. Bổng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy trong quả tim này .. .. ..sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm hể lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuc có bấy nhiêu câu hát đó. Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sỉ Khiêm, thường vụ, xem ai hát, mà sau hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi. Ðược biết đó là binh I Chắc, sở dỉ hát suốt đêm, là vì các binh sỉ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ sỉ Chắt gác thế. Nó người Sông-ông-Ðốc, (Càmau), tướng tá vạm vở; nhưng hiền lành chẩt phác. Trong đại đội nó tải đạn cho súng trung liên. Tôi để ý, đạn nó giử luôn sạch sẻ, balô ngoài đạn trung liên ra, chỉ có võng; một cái khăn rằng lớn, vừa dùng để làm mền, vừa, dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo xấy. Tuy nó không phải ‘tà lọt’, nhưng mổi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia sớt đồ ăn cho nó. Một kỹ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại, nhiều lần như muốn hỏi điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chù chừ mãi một hồi lâu nó mới mở miệng:
Thiếu-úy, Phải con gái tụi nó có 2 lổ,1 lổ tiểu, và một lổ lửa. Nếu không biết...nhằm vào lổ lửa thì phỏng ...cu phải không ?
Tôi định cười thật to, vì sự khù khờ của nó, vi kềm lại được, bèn hỏi: Ai nói với Anh như thế .
Nó đáp Thượng sỉ Khiêm. Tôi bảo Thượng sỉ Khiêm gạt anh đó. Mà mổi lần đại đội về Bình-long, sao anh không đến Hàng-keo, đi chơi cho biết. Tôi nghỉ hôm nào đai-đội về Bình-long chắc tôi phải dẩn nó đi một chuyến quá. Tôi bèn giải thích thật cặn kẻ cho nó biết.
Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước một tiệm hũ tiếu duy nhứt ở quận Chơn thành. Con Lài con nhà lao động, mà nước da trắng bóc, thân hình nẩy nở, thật cân đối. Tôi thấy các HSQ Biệt-động-quân, HSQ Chi khu, có cả một vài SQ chi khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù-khù có ông Cù độ mạng. Nó lại thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mổi chiều, nếu đại đội không hành quân xa, thì nó ra nhà con Lài giúp đở, những gì nó làm được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy, chớ không phải đi, thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới Ông gìa nó từ Càmau lên, xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ có Ba nó, và đại đi 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ mặc vừa được cái áo, mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải quần ‘treilli’, giày ‘bốt-đờ-sô’. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10 lít rượu đế . Tôi thấy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui, mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt .
Thế mà, 2 tuần sau, thắng Chắt bị tử trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn-thành, không đưa về Càmau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ tử sỉ khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghỉ, cử chỉ này, chứng tỏ một niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó. Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ. Chưa từng có người yêu, dẩn đi dạo phố. Chưa từng có một thời làm học trò, biết ghi lưu bút ngày xanh ... . Còn, còn rất nhiều mất mát thiệt thòi khác nửa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên, của chị Dậu chị Tình, ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.
Xin lổi, đã làm quý vị vài giây dao động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.
Phi cơ đáp phi trường Khe-sanh, sau khi đón vị sỉ quan Lào tai Ðông hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly, qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẳn rồi. Khe sanh cách Ðông hà không xa, mà thời tiết, và cảnh vật thật là cách biệt. Cây cối xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa, mà không gian bao trùm một màn sương mỏng. Không khí thật dể chịu. Phi trường Khe sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB. Khe sanh nằm trong quận Hương hoá, nơi đây trồng rất nhiều càphê. Từ trại theo quốc l 9, qua quận Hương hoá, qua Lao bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp thuộc) qua Làng vây; rồi mới đến biên giới 2 nước .
Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân khu Tchépone niềm nở đón tiếp, và đưa vào phòng thuyết trình. Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài. Vị sỉ quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp. Tôi phải lôi vốn liếng Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco-Chinoise ra để theo dỏi buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn-vị địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất Tiểu đoàn 33 này mà thôi .
Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ Tiêu quay về Khe sanh, và trở về Sàigòn cùng buổi chiều hôm đó. Buổi tối, không biết là có dịp lể nào cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái đoàn. Máy phát điện được chạy lên sáng khắp doanh trại. Tôi thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng tập trung về tham dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự.
Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất, loại áo quần bó sát, mà ta thường trông thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25 là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các sỉ quan, và binh sỉ ,thì da dẻ trông trắng trẻo , có lẻ họ là người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có mt món như là bê thui. Chắm mt thứ nước gì sền sệt bỏ vào muổng, rồi khum người lại mời chúng tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ.
Món nước chấm này, là phần bên trong rut non cuả bò, pha với mt loại nước mắm của Lào, do đó để không bị các cô mời, tôi phải có mt món khác ngậm trong miệng, để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái-lan và Cao-miên. Các cô cũng lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang, 2 tay cứ xoay xoay, cũng dể. Không biết có phải phong tục Lào theo mẩu hệ hay không, mà các cô tự do vui chơi đến sáng.
Thời tiết lạnh lạnh, không khí thật dể chịu. Mặc dù hôm qua trải qua một chặng đường xa, sáng nay dậy chúng tôi thấy thật khỏe, không thấy mệt. Trung-úy Ly cho biết, nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở một tiền đồn, với binh sỉ hoàng gia Lào, để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng quân xa mổi đêm (Thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban ngày). Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch mổi đêm. Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ Mỹ oanh-kích dử di. Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm nửa. Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại ,thì chúng tôi thi hành công tác. Toán chúng tôi gồm Trung-úy Ly, Kiên, tôi và 2 HSQ truyền tin. Nhưng mổi lần gửi công điện cần quay đầu bò (B phận phát điện) bên phía Lào, đều tăng phái 2 binh sỉ qua làm công tác này. Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi chơi khoẻ ru. Mổi buổi sáng, bên Bộ-chỉ-huy Tiểu-đoàn Lào đều mang qua cho bên Việt-nam, một rổ xôi. Xôi họ thổi khô, nhưng rất mềm, và dẻo. Nơi đây không có chợ búa gì cả. Ngày nào ngán xôi, thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội ,ăn với cá mòi Sumaco. Buồn qúa, tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi. Nó không chiụ đi, cứ ngồi chửi là nó bị ‘Ðì ’,nên đày nó qua đây. Vì lúc cả nhóm đòi phải được quyền chỉ huy, nếu không được; tôi và nó, xin được trở về đơn vị cũ. Tôi không cho là điều nó nghỉ là đúng. Tánh thằng Kiên là vậy; nó nóng nảy nhưng trực tính, việc gì nó cho là không đúng, là nó chưởi toáng cả lên. Bất kể là quan lớn, hay bé. Phần tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chữi ‘’Số ngày mày đi lính, không bằng ngày tao bị lậu ‘’.
Mà sự thật: Năm 1954 nó có tham dự trận Ðiện biên phủ. Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon ‘quan ba ‘ ‘quan bốn ‘, còn nó vẫn làm ‘ quan một ‘dài dài. Với nó, mà đem chuyện ‘’thi hành trước,khiếu nại sau ‘’thì còn khuya, nó mới làm. Vì tính khí nó như thế, nên sau này nó bị đổi ra bộ binh, làm việc ở Phòng 2 , Quân đoàn I . Thỉnh thoảng có đi công tác về Ðànẳng, tôi có ghé khu phòng vãng lai Sỉ Quan độc thân thăm nó. Bây giờ nó bất mản còn dữ nữa. Cho là đuổi nó ra khỏi ‘nhảy dù’ là làm nhục nó. Thời gian sau, nghe nói nó tình nguyện vào Sở Bắc. Kinh-Kha lúc sang Tần, là thanh niên trai tráng. Còn thằng Kiên thì một vợ 4 , 5 con rồi. Mà nghỉ cũng lạ, thanh niên trai trẻ tình nguyện thiếu gì. Sao lại chọn nó làm chiến sỉ vô danh. Biết rằng, ra đi sẻ không có ngày trở lại. Bị tù gần 20 năm. Vượt biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bão lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt-nam. Các bạn nào chưa quen biết nó, mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hảy thông cảm. Chúng ta mà va vào trường hợp như nó, sợ bây giờ chắc đã theo ông bà, ông vải từ lâu. Rồi thì Ông Trời cũng có mắt. Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chìu chung, và lo cho nó hết mình. Ðền bù lại những ngày tù đày của nó. Con gái riêng của bà, cũng kính trọng thằng Kiên như cha ruột. Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả đây. Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5 , 7 phần rồi.
Kiên ơi ! Nếu mày có đọc tới đây, thì tụi mình bây giờ, còn gì nữa đâu :‘’Chiều xuống êm đềm’’nghe Kiên .
Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt mình. Làng Husane chỉ cách trại khoảng 1 cây số ,,nằm cạnh sông Tchépone, dưới bóng rợp mát của của những tàng dừa. Ðường làng thật sạch sẻ, phần nhiều là nhà sàn, khác với người Miên và người Thượng, họ không nuôi trâu bò, và gia súc dưới sàn. Dân làng thật cởi mở, hiếu khách, vui vẽ, mời tôi leo thang, lên nhà uống nước. Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà; làm việc nhà, hay dệt vải. Khung dệt được đặt dưới sàn nhà. Các cô quỳ, và dùng tay để phóng con thoi qua lại. Phần nhiều mọi nhà đều tự dệt vải để dùng. Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi nhìn các cô dệt suốt buổi, chỉ biết cười, và làm điệu bộ ra dấu thôi, có biết tiếng Lào đâu mà nói. Buổi chiều tôi theo mấy HSQ truyền tin đi tắm sông. Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng không sâu, và bờ sông lài lài, nên rất dể dàng lên xuống. Các cô cũng không e then, khi tắm chung với người khác phái. Có điều theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy. Khi các cô muốn xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu, rồi ngồi hụp xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào bờ. Có nhanh mấy đi nửa, thì tụi tôi cũng nhìn thấy đũ hết rồi. Có thể đến gần, miển là vẩn ở dưới dòng, nước sông không trong lắm, nhưng những gì mình muốn thấy, thì vẫn thấy rỏ rang. Họ đùa giởn thật vô tư. Khi muốn lên bờ, thì một cô quay người ngược về chúng tôi, chạy nhanh lên bờ, choàng khăn xong, từ đó ném khăn xuống cho các bạn. Mấy thuở mà nhìn được một lần 5, 7 sơn nữ Phà-ca cùng tắm sông một lúc, phải không các bạn .
Chưa có công tác, vẩn ngồi chờ. Tôi và thằng Kiên qua Khe-sanh chơi. Quốc l 9 đoạn này còn rất tốt, chưa bị chiến tranh tàn phá. Rừng cây cổ thụ cao, to, 2 bên đường, khiến con đường mát lạnh. Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ thụ 2, 3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì. Nếu đường sá thông thương, thì giờ này làm gì còn. Cũng trên đoạn đường này lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trỉ. Lúc nhỏ xem hát bi, thấy đào kép có giắt lông trỉ trên mảo, giờ đây mới thấy tận mắt. Nó thường đi từng cặp. Thấy xe đến gần ,nó chỉ bay tới một đoạn ngắn, rồi đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới bay, suốt một đoạn đường dài như vậy. Nếu chúng tôi dừng xe, đứng nhìn, thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp. Thỉnh thoảng cũng thấy một loại chim như con công, nhưng không to và đẹp bằng .
Quận Hương-hóa chỉ có 1 con đường đc đạo. Cũng có mt vài tiệm tạp hóa, kiêm luôn bán càphê. Hàng hóa khá đắt, vì phải thồ từ Ðông hà lên. Vì là nơi sản xuất nhiều càphê, nên tôi có hỏi về càphê cứt chồn. Ông chủ quán cho biết là: để đi nhặt những hạt càphê do chồn ăn rồi bài tiết ra thì biết bao lâu mới được 1 ký. Riêng ông thì, vì có trồng càphê, những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín ,rụng xuống đất .Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt càphê vữa đi , nhặt những hạt này về rửa sạch phơi khô. Vì có cùng một độ già, độ chín, giống nhau, nên hương vị khác hơn những loại khác. Thỉnh thoảng qua Khe-sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng. Buổi cơm chiều đó chúng tôi được bồi dưởng thịt tươi .
Hơn 2 tuần không có việc gì làm, bắt đầu thấy buồn; thì có công điện, 2 đứa chúng tôi phải về trình diện SLL ngay. Thằng Kiên nó mừng kể gì. Chiều ngày hôm sau, là chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi. Ðược biết là chúng tôi trở lên lại Long-thành, các anh Bích , Thụ và Hy đã lên trước rồi.
Hai tuần vừa qua, xem như vừa được đi du lịch. Cám ơn dân làng Husane, cám ơn Tchépone, cám ơn những sơn nữ Phà-ca, đã cho tôi 2 tuần lể khó quên.
Chúng tôi lại trở về toán củ. Bây giờ, sau khi đã được bàn cải ở cấp cao, giửa 2 bên Mỹ-Việt. Tiếng Counterpart được thay thế tiếng Advisor. Nghiã là không có ai chỉ huy ai. Hai bên quyền hạng như nhau. Chúng tôi bắt đầu nhận công tác hành quân. Bắt đầu những chuyến đi, mà ‘ mười lần đi ,có đôi ba lần không trở lại ‘.
Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại vùng này .Những hố bom B 52 chi chít. Ðường quốc l 9 đã bị cày nát nhiều đọan. Làng mạc tiêu điều. Thật kinh khủng. Không biết những Sơn nữ Phà Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời nào.
Lê Minh.
Hello Nguyễn-thái Kiên.
Biết Mày bị bệnh nặng mấy tháng nay. Nhưng tin Mày ra đi, cũng làm Tao bàng hoàng không ít. Trứoc sau gì cũng phải 1 lần ra đi thôi! Sao Mày lại giành đi sớm quá vậy. Không chấp hành ‘’hệ thống quân-giai gì cả.‘’ Còn 5 , 6 Ông ‘’Cù-Lũ’’còn khả năng, ăn 10 , 15 Mùa Noel nửa mới chịu đi mà Mày lại qua mặt dọt đi trước. Chắc không khỏi lảnh 15 củ.
6 thằng Toán-trưởng đầu tiên, Thằng Văn, thằng Bích, rồi bây giờ đến phiên Mày giành đi trước. Còn thằng Thụ, thằng Hy muốn đi lúc nào thì đi; phần Tao, Tao tình nguyện đi cuối cùng. OK .
Tao có viết 1 bài, có nói về Mày. Cháu Khuê đã đánh máy xong cả rồi, dự trù sẻ đăng vào đặc-san ngày Ðại-hi 8 cuối tháng 5 năm 2010. Bây giờ Mày ra đi sớm qúa .Tờ báo chưa in, nên Tao vi viết vài dòng và gữi bài viết cho Mày đọc trước.
Mày được tụi tao đặt cho ‘’Nick-name’’ là Kiên khùng. Nhưng cái khùng của Mày thật dể thương, không làm ai giận cả. Ðôi khi cơn khùng của Mày mang chút gì Anh-Hùng trong đó. Tao không biết Mày sẻ đi đến đâu, ngoài cái thế-giới ta-bà này. Nhưng Tao mong, nơi nào Mày sắp đến đó : Mày sẻ gặp lại Bà-Xã Mày. Người Ðàn-Bà mà mt đời đã hết lòng lo cho Mày.
Bạn Mày .
Lê-Minh .
Kiên đã ra đi.
Mấy năm trước anh Kiên thường gọi tôi có khi hàng tuần. Mỗi lần có khi nói với nhau cả vài tiếng. Tuy thế vài năm gần đây không thấy anh ấy gọi nữa, tôi nghĩ là anh ấy giận gì đó, không ngờ anh ấy đau.
Nay thì Kiên không còn nữa.
Thương cho anh Kiên và cũng thương cho Chị Kiên, người phụ nữ hiền thục ở Ngã Ba Ông Tạ. Chị thắt lưng buộc bụng nuôi con chờ chồng từ năm 1968 khi anh tình nguyện nhảy ra Bắc lúc ba bốn đứa con còn thơ dại. Lúc anh sắp đi, tôi đã nhiều lần cản, bảo với anh: ”Có ai bắt mày phải đi đâu mà mày đày đọa thân mày và vợ con mày”. Anh trả lời: “Tao phải đi để cho người ta biết.” Tôi hiểu “người ta” đây là ai.
Thế rồi sau bao nhiêu năm đọa đày trong lao tù VC, anh được tha về trước tôi khoảng một năm. Gặp lại nhau ở Ông Tạ năm 1983, mừng mừng tủi tủi, tôi đến thăm Chị Kiên vẫn ở ngôi nhà cũ lúc anh ra đi. Lúc ấy anh Kiên miệng luôn chửi VC không hề sợ sệt. Chị Kiên một lần nói với tôi: “Chắc tôi phải lo cho ông ấy đi ngay chứ không cứ như thế này thì lại vào tù thôi”. Thế là anh vượt biên một mình để chị lại tiếp tục trong cảnh đợi chờ. Vài năm sau thì Chị mất ở VN trong cảnh mòn mỏi đợi chờ (theo lời anh Kiên kể). Chị là người có một không hai. Người phụ nữ đáng kính ấy nay ở đâu!!!
Khi mới về SLL vào cuối năm 1963, tôi gặp anh Kiên, lúc ấy anh còn là Thiếu úy làm trưởng ban quân số Phòng HC SLL. Anh gốc Nhảy dù, còn tôi gốc Bộ binh thuộc Trung đoàn 46 BB từ Hâu Nghiã thuyên chuyển về. Mẵc dù dã bị thương vài lần trưóc khi về SLL, tôi vẫn thấy mặc cảm và phục mấy ông mũ đỏ sát đất nên luôn lễ phép với với anh, một điều thưa thiếu úy, hai điều thưa thiếu úy. Tôi đã bỏ lối xưng hô lễ phép này với anh sau một lần anh chửi tôi: “Thiếu úy cái con C…, tao muốn từ nay mày bỏ cái lối ấy đi.”
Dù rằng sau đó chúng tôi mày tao chi tớ theo ý muốn của anh nhưng tôi vẫn luôn kính trọng anh vì anh hơn tôi cả chục tuổi. Anh luôn đối xử với tôi như anh là một đàn anh chính hiệu. Bất cứ cái gì tôi nhờ anh, anh đều giúp đỡ tận tình giọng điệu luôn kẻ cả che trở của người lớn. Tôi nhớ sau khi về SLL được vài tuần nhưng tôi vẫn chưa thấy Tống Hồ Huấn, người cùng danh sách được thuyên chuyển với tôi từ Trung đoàn 46 BB về SLL đáo nhậm đơn vị, tôi đến hỏi anh. Anh nói ngay: “ Cậu đừng lo, tao chỉ gởi một công điện là tuần sau nó về đây ngay”, và anh cho tôi xem công điện anh thảo. Trong đó có một câu cuối mà tôi nhớ rất rõ: “Mọi sự chậm trễ, đơn vị trưởng hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Và đúng như anh nói, khoảng tuần sau đó thì Tống Hồ Huấn về trình diện.
Có lần anh tâm sự với tôi về gia đình. Anh nói: “Bây giờ tao chỉ có vợ con thôi. Vợ tao là do tao một mình tự lo từ cơi trầu đám hỏi cho đến lúc cưới, một mình lo cho mình”. Anh rất thương vợ con và mọi sự chỉ cho vợ con. Anh không hề trai gái đàng điếm ăn chơi la cà hàng quán.
Năm 1968 khi tôi được gọi tái ngũ thì đúng vào dịp anh bị đổi đi khỏi SLL ra Quân Ðoàn 1. Hôm anh đi, tình cờ tôi cũng đi phép về Ðà Nẵng thăm gia đình, và tôi đã đưa anh đến tạm trú ở nhà Chị ruột tôi taị Cư xá Thống Nhất Ðà Nẵng trước khi anh đáo nhậm đơn vị mới. Tuy thế chỉ một thời gian ngắn sau tôi lại gặp anh ở Sài Gòn. Anh tình nguyện về Nha Kỹ Thuật để vào các toán ra Bắc cùng một thời điểm với nhóm anh Nguyễn Hữu Luyện.
Năm 1984 sang đến Pulau Bidong thì tôi nghe tin anh Kiên vừa chuyển về Sungai Besi ít lâu. Không ngờ cứ như đuổi ma, khi tôi sang đến đấy thì anh đã đi, và rồi mãi đến những năm cuối của Thiên niên kỷ cũ tôi mới gặp lại anh ở Los Angeles. Hôm ấy Lê Minh đón anh rồi đưa anh về China Town Los Angeles. Chúng tôi rủ anh đi ăn ở Phở Hòa China Town. Ăn xong, tôi đi long vòng với anh, chúng tôi ghé vào một tiệm bán báo và lịch. Thấy anh mân mê cuốn Penthouses của Hồng Kông, tôi liền mua tặng anh một cuốn. Anh cười hô hố, giọng oang oang đầy tiềm lực. Mặc dù lúc đó trông anh đã rất già, tôi vẫn có cảm nghĩ là anh sẽ sống đến cả trăm tuổi chứ không ít.
Năm NKT tổ chức giỗ cho các Chiến Hữu ở vùng Las Vegas, vì bận công việc tôi không tham dự được, anh Kiên đã gọi ngay cho tôi khi trở về và kể cho tôi chuyện đụng đầu với “ông bạn BKQ cũ ở Long Thành ” Hoàng Phong Linh. Tôi biết tính anh nên chỉ nghe và cười chứ không dám có ý kiến gì.
Anh Kiên tính nóng nhưng rất trực tính. Anh là ngưòi chưa hề biết sợ là gì. Anh rất tốt bụng, nếu đã giúp đỡ ai cái gì là anh giúp tận tình. Ði với anh nhiều khi tôi có cảm tưởng là nếu ai đụng đến tôi chắc phải khốn đốn với anh. Nhớ anh những ngày ở SLL, nhất là những đêm anh trực nhật, và ở Long Thành với những ca trực gác tuần tiễu ban đêm. Nhớ anh những lần anh bắn lủng cả trần CLB ở SLL khi anh từ Long Thành về.
Tuy không chắc chắn về tuổi của anh nhưng tôi nghĩ anh đang ở tuổi 8 bó. Nay ngồi đây viết về vài kỷ niệm với anh, lòng thấy bùi ngùi thương anh Kiên, thương Chị Kiên, thương các con cháu anh Kiên. Họ là những người VN với hai vai mang nặng những thảm họa trong cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại Cộng Sản.
Xin nghiêng mình trước vong hồn Anh Kiên và Chị Kiên khu Ông Tạ.
Xin chia buồn với Chị Kiên Mới và tang quyến.
Trần Trung Ginh và Gia đình
Doi loi ve su can truong va hy sinh cua anh Kien!
Bang hoang khi nghe tin anh Kien gia tu ban be ra di,qua bat ngo,toi duoc biet anh Kien trong suot thoi gian huan luyen tai Long Thanh cung nhu nhung cuoc hanh quan thuc tap tai DaLat, sau do lai tham du cuoc hanh trinh cua anh di vao long dat dich,vao dem thang 9/21/1967 trong chuyen bay dem tren phi co C130, ngoai phi hanh doan toan nguoi My ,toi la nguoi VN duy nhat tren chuyen bay, phi vu that vat va nguy hiem vi phai dung ky thuat bay tranh tam hoa tien cua dich, toi rat suy tu ve su hy sinh cua anh, voi cap bac D/U va tuoi doi cua anh, le ra anh khong can phai chap nhan su hy sinh nhu vay, tuy nhien anh van chap nhan ra di, toi dam nhiem cua mot Jump Master tren phi co, co nhiem vu mac do trang bi deo du, de chuan bi san sang cho cuoc hanh quan nhay du vao long dat dich tren vung troi Bac Viet, neu ke het ve chuyen bay dinh menh do thi rat dai, tuy nhien do la lan chot toi cam nhan duoc su hy sinh vo bo ben cua anh,
Hom nay nhan duoc tin anh da vinh vien ra, toi xin thap nen huong long tuong nho den anh , cau nguyen anh duoc vien man
Tuu Nguyen Denver Colorado
Subscribe to:
Posts (Atom)